Con vích biển có tên khoa học là Lepidochelys olivacea – một loài thuộc họ rùa biển. Loài rùa biển này được liệt kê vào trong danh sách những loài bị tổn thương và cấm buôn bán do số lượng đang bị giảm sút bởi môi trường sống bị ô nhiễm và tình trạng săn bắt quá mức.
Nội dung chính trong bài
Tìm hiểu về chung về con vích biển
Vích biển là một loài rùa biển nhỏ, tên khoa học Lepidochelys olivacea của chúng xuất phát từ màu sắc cơ thể của con vích biển giống màu của loài cây ô liu. Loài này cùng bộ rùa với các ba ba trơn, ba ba gai được nuôi nhiều ở nước ta.
Con vích biển trưởng thành khoảng 60 – 70cm (2 feet). Cá thể vích biển cái và đực thường có kích thước tương đương nhau. Tuy nhiên, đặc điểm khác biệt lớn nhất là cá thể cái có thân hình tròn và có cái đuôi ngắn hơn cá thể vích biển đực.
Loài rùa biển này có trọng lượng dao động từ 25 – 45kg, tối đa là khoảng 50kg. Con vích biển đực thường có trọng lượng lớn hơn cá thể cái một chút.
Mai của con vích biển nhìn khá bắt mắt với hình trái tim cùng với các cặp vảy màu nâu đỏ hoặc xanh đậm sắp xếp đối xứng nhau. Phần mai của loài rùa biển này thấp nhất ở phần đuôi và cao dần lên về phía đầu. Viền mai có hình răng cưa và sẽ biến mất dần nếu tuổi của chungs càng lớn,
Đầu của chúng có màu xanhh xám hoặc nâu đỏ. Con vích biển có phần đầu khá ngắn, hình tam giác và có một số chiếc vảy ở trên đỉnh.
Tứ chi của con vích biển có hình dạng giống như mái chèo, mỗi chân có 2 móng vuốt. Bụng dưới phẳng, có màu trắng xanh hoặc vàng kem tùy theo độ tuổi.
Thức ăn chủ yếu của loài rùa biển này là động vật nguyên sinh và động vật không có xương sống như sứa, ốc, tôm, cua, giun,… Ở các khu vực khan hiếm thức ăn, vích biển có thể ăn tảo sợi hoặc thịt của xác động vật.
Phân bố và tập tính sinh sản của con vích biển
Loài rùa biển này phân bố khá rộng, hầu hết các vùng biển nhiệt đới, khí hậu ấm áp đều có sự xuất hiện của con vích biển. Ở các đại dương lớn như Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, Đại Tây Dương cũng ghi nhận sự có mặt của loài thú quý hiếm này.
Con vích biển cũng được tìm thấy ở dọc theo bờ biển ở nước ta, trải dài từ Nam Định cho đến Kiên Giang và các đảo ngoài khơi.
Môi trường sống ưa thích của chúng là các vùng biển nông có khoảng cách từ 15km đổ lại đất liền để dễ kiếm ăn và tắm nắng. Tuy nhiên, đôi khi chúng cũng xuất hiện ở các vùng nước sâu.
Về tập tính sinh sản thì đây là một loài động vật sinh sản lưỡng tính. Con vích biển đực có chiếc đuôi khá dài, đó là bộ phận sinh dục của chúng.
Hai chi trước và các móng vuốt giúp cá thể vích biển đực bám lấy cá thể cái trong quá trình giao hợp. Các đặc điểm khác biệt của con đực như phần bụng có nhiều vết lõm, thân hình dài và thon hơn giúp chúng dễ dàng thích nghi với việc giao phối với con vích biển cái.
Điểm đặc biệt là con vích cái có thể lưu trữ tinh trùng trong cơ thể để sử dụng cho những lần sinh sản khác.
Thông qua mùi của bãi biển, con cái sẽ trở về chính nơi nở ra để đẻ trứng. Loài rùa biển này nổi tiếng với hành vi làm tổ tập trung với số lượng lớn, theo ước tính trung bình có khoảng 300 con vích biển cái lên bờ và làm tổ tại một khu vực.
Địa điểm làm tổ của con vích biển cái là những bãi cát trên bờ biển, cách biển khoảng 50m. Cá thể vích cái sẽ dùng hai chân trước để đào những cái tổ hình nón sâu khoảng 40 – 50 cm.
Mỗi lần sinh sản, vích cái thường đẻ 100 trứng sau đó chúng vùi cát lại rồi quay trở về biển. Toàn bộ quá trình đẻ trứng của con vích biển diễn ra chỉ trong vòng 1 tiếng đồng hồ.
Trứng của con vích biển sẽ nở thành con non sau khoảng 45 – 51 ngày, tùy thuộc vào điều kiện môi trường. Đặc biệt, nhiệt độ ấp trứng sẽ quyết định giới tính của những cá thể rùa biển con sau khi nở ra.
Những con non khi mới nở thường có kích thước khoảng 37 – 50mm, viền mai và quanh thân có màu trắng. Con vích biển khi mới nở sẽ dựa vào ánh sáng để có thể bò ra biển. Cho đến khi trưởng thành, chúng sẽ phải đối mặt với rất nhiều kẻ săn mồi, vì vậy tỉ lệ sống sót của vích biển non là khá thấp.
Kẻ thù của con vích biển trong tự nhiên
Những con vích biển trưởng thành có rất ít kẻ thù trong tự nhiên. Chúng chỉ bị tấn công bởi hai loài động vật săn mồi trong đại dương là cá mập và cá voi sát thủ.
Trên đất liền, con cái thường bị tấn công bởi báo đốm – loài mèo duy nhất có khả năng cắn thủng qua lớp mai và bụng của con vích biển. Trong những năm gần đây, do môi trường sống bị thu hẹp và lượng thức ăn khan hiếm, nên báo đốm có xu hướng tấn công các cá thể vích biển cái nhiều hơn.
Trái ngược với những cá thể trưởng thành, trứng và con vích biển mới nở phải đối mặt với rất nhiều mối đe dọa trong tự nhiên.
Kẻ săn trứng rùa biển nổi tiếng phải nhắc đến là gấu mèo, chó sói, chó hoang, lợn rừng, cua, rắn biển,… Tuy nhiên, một yếu tố dẫn đến tình trạng trứng vích biển bị phá hủy cũng là do số lượng cá thể cái lên một khu vực để đẻ trứng quá nhiều. Những tổ trứng của con vích biển trước có thể bị những cá thể cái đến sau vô tính đào lên và bị phá hủy.
Những con vích biển khi mới nở sẽ phải đối mặt với những kẻ săn mồi là kền kền, chim gõ kiến, gấu mèo, chó sói, kỳ đà và rắn. Những con non sẽ bò ra biển nhờ dựa vào ánh sáng nhưng cũng có khá nhiều vích biển con lạc vào trong đất liền và chết do thiếu nước hoặc kiệt sức.
Tình trạng bảo tồn con vích biển
Mặc dù có phạm vi phân bố rộng, nhưng trong nhiều năm qua số lượng vích biển đang giảm đi nhanh chóng. Ngoài các mối đe dọa nêu trên thì kẻ thù lớn nhất của vích biển chính là còn người.
Do có giá trị cao nên người dân địa phương ở nhiều nơi vẫn thường xuyên đào bới tổ của con vích biển để lấy trứng. Thậm chí, ở nhiều khu vực còn coi việc buôn bán trứng vích biển là hợp pháp nên tình trạng này diễn ra ngày càng khó kiểm soát.
Tỷ lệ trứng vích biển có thể nở thành con cũng khá thấp cũng là một lý do khiến cho số lượng loài này bị giảm nhanh. Theo thống kê, chỉ có 0.2% trong số 11.5 triệu trứng nở thành công thành con vích biển non.
Với các cá thể vích biển trưởng thành, chúng thường bị con người bắt để giết để làm thực phẩm, da, mai. Ngoài ra, vích biển cũng bị chết thường xuyên va chạm với tàu thuyền và bị mắc lưới ngư dân.
Môi trường sống của con vích biển cũng bị ảnh hưởng nặng nề do biển đang dần bị ô nhiễm.
Năm 2008, loài rùa biển này đã được Liên minh quốc tế về bảo tồn thiên nhiên đưa vào danh sách đỏ các loài bị đe dọa của IUCN, phụ lục I của công ước CITES, công ước của của Mỹ về bảo tồn rùa biển,…
Đồng thời, các hoạt động tuyên truyền, ngăn chặn việc săn bắt vích biển và trứng của chúng cũng được diễn ra ở nhiều nơi. Việc này đã và đang thay đổi nhận thức của người dân về bảo vệ con vích biển và các loài động vật hoang dã.
Các biện pháp như xây dựng các khu bảo tồn thiên nhiên, đưa rùa biển cái vào các trại giống để đẻ trứng cũng giúp tỉ lệ nở ra con non cao hơn và hạn chế mối đe dọa trong tự nhiên.
Bảo tồn các loài động vật hoang dã đang là vấn đề cấp thiết. Chúng ta cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó chống buôn bán động vật hoang dã trái phép, nâng cao nhận thức của người dân là những việc cần thiết nhất.
Việc buôn bán động vật hoang dã diễn ra ở nhiều nơi nhưng các nước Châu Á vẫn là nơi tiêu thụ các sản phẩm từ động vật hoang dã nhiều nhất. Việt Nam được cho là điểm trung chuyển của nhiều đường dây buôn bán các loài động vật này. Trong bài viết https://www.rbbtoday.com/release/kyodonews_kaigai/20161122/175275.html, cộng đồng quốc tế cũng kêu gọi chúng ta phải có hành động mạnh mẽ hơn để ngăn chặn tình trạng này.
Trên đây là những thông tin về đặc điểm hình dạng, phân bố, tập tính và thực trạng bảo tồn con vích biển. Hy vọng, qua bài viết này sẽ giúp bạn đọc nâng cao hơn ý thức trong việc bảo vệ các loài động vật hoang dã.
Con này quá đẹp.mong mọi người bảo vệ chúng.